忍者ブログ

thuốc chữa bệnh trĩ hiệu quả nhất hiện nay

Thuyên tắc phổi ở bệnh nhân nhập viện với COVID-19

×

[PR]上記の広告は3ヶ月以上新規記事投稿のないブログに表示されています。新しい記事を書く事で広告が消えます。

Thuyên tắc phổi ở bệnh nhân nhập viện với COVID-19

Bài viết Thuyên tắc phổi ở bệnh nhân nhập viện với COVID-19 được dịch bởi Bác sĩ Đặng Thanh Tuấn từ bài viết gốc: Pulmonary embolism in hospitalised patients with COVID-19

Điểm nổi bật

• COVID-19 có liên quan đến tỷ lệ PE cao hơn, đặc biệt là ở những bệnh nhân nặng.

• Việc xác định những đối tượng cần chẩn đoán hình ảnh là một thách thức do bệnh cảnh lâm sàng chồng chéo và D-dimer cao trong COVID-19.

• Nghiên cứu đơn trung tâm về kết quả hình ảnh (đối với PE), ở những bệnh nhân nghi ngờ/xác nhận COVID-19.

• 37% bệnh nhân nội trú được quét CT có PE. D- dimer > 4200 ng/mL được phân tầng nguy cơ, nhưng không thể loại trừ PE.

• Bác sĩ lâm sàng nên có chỉ số nghi ngờ cao đối với PE trong COVID-19.

Tóm tắt

Bối cảnh

Bệnh Coronavirus 2019 (COVID-19) được đặc trưng bởi chứng khó thở và các thông số đông máu bất thường, bao gồm cả D-dimer tăng. Dữ liệu cho thấy tỷ lệ thuyên tắc phổi (PE, pulmonary embolism) cao ở bệnh nhân thở máy với COVID-19.

Mục tiêu

Để xác định tỷ lệ PE ở bệnh nhân nhập viện với COVID-19 và kết quả chẩn đoán của Chụp mạch máu phổi bằng cắt lớp vi tính (CTPA, Computer Tomography Pulmonary Angiography) cho PE. Chúng tôi cũng đã kiểm tra lợi ích của D-dimer và xác suất trước thử nghiệm (pre-test probability) thông thường để chẩn đoán PE trong COVID-19.

Bệnh nhân/phương pháp

Đánh giá hồi cứu dữ liệu đơn trung tâm của tất cả các nghiên cứu CTPA ở bệnh nhân nghi ngờ hoặc xác nhận COVID-19 được xác định từ Hồ sơ điện tử của bệnh nhân (EPR, Electronic Patient Records).

Các kết quả

Có 1477 bệnh nhân COVID-19 được thực hiện 214 lần chụp CTPA, trong đó n = 180 (84%) được yêu cầu ngoài chăm sóc đặc biệt. Hiệu suất chẩn đoán cho PE là 37%. Tỷ lệ PE chung ở bệnh nhân COVID-19 là 5,4%. Tỷ lệ có điểm Wells ≥4 (‘có khả năng’ PE) là 33/134 (25%) nếu không có PE so với 20/80 (25%) nếu có PE (P = 0,951). Điểm số Cảnh báo Sớm Quốc gia-2 (NEWS2, National Early Warning-2 score) trung bình (mức độ nghiêm trọng của bệnh tật) là 5 (phạm vi liên phần tư [IQR] 3–9) ở nhóm PE so với 4 (IQR 2–7) ở nhóm không có PE (P = 0,133). D- dimer ở PE (trung bình 8000 ng/mL; IQR 4665– 8000 ng/mL) cao hơn so với người không PE (2060 ng/mL, IQR 1210–4410 ng/mL, P <0,001). Trong nhóm ‘xác suất thấp’, D-dimer cao hơn (P <0,001) ở những người có PE nhưng có vai trò hạn chế trong việc loại trừ PE.

Kết luận

Ngay cả bên ngoài môi trường chăm sóc đặc biệt, PE ở bệnh nhân nhập viện với COVID-19 là phổ biến. Đáng chú ý, gần một nửa số trường hợp PE được chẩn đoán khi nhập viện. Cần có thêm dữ liệu để xác định lộ trình chẩn đoán tối ưu ở bệnh nhân COVID-19. Các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng về dự phòng huyết khối tăng cường là cần thiết.

1. Giới thiệu

Hội chứng hô hấp cấp tính nghiêm trọng coronavirus 2 (SARS-CoV-2), được định nghĩa là bệnh do coronavirus 2019 (COVID-19) là một đại dịch toàn cầu. Các đặc điểm lâm sàng của COVID- 19 bao gồm sốt, ho, mệt mỏi, đau cơ, tiêu chảy và viêm phổi. Khó thở gặp ở khoảng 1/5 bệnh nhân 18,7% [1]. Tuy nhiên, trong một loạt ca từ Trung Quốc, COVID-19 không tạo ra bất thường trên X quang hoặc CT ở 157 trong số 877 bệnh nhân (17,9%) mắc bệnh không nặng [1]. Các trường hợp nặng được đặc trưng bởi hội chứng nguy kịch hô hấp cấp, toan chuyển hóa, sốc nhiễm trùng, rối loạn chức năng đông máu và suy các cơ quan [2-4].

Ngoài tình trạng bất động gây ra bởi tình trạng mệt mõi và khó thở, COVID-19 có khuynh hướng gây viêm hệ thống, đã được báo cáo là làm tăng nguy cơ huyết khối tĩnh mạch sâu (DVT, deep vein thrombosis) [5], với PE gặp ở 16,7- 47% bệnh nhân được đưa vào đơn vị chăm sóc đặc biệt (ICU) [6-9] mặc dù đã sử dụng dự phòng huyết khối.

Giá trị D-dimer tăng cao đã được báo cáo ở 43% bệnh nhân mắc COVID-19 [10], với giá trị cao hơn ở những bệnh nhân mắc bệnh nặng hơn [11,12]. Vì vậy, trong bối cảnh nhiễm COVID-19, việc xác định ai để kiểm tra có đồng mắc bệnh thuyên tắc phổi (PE) là một thách thức rất lớn.

D-dimer là một biến số liên tục, phản ánh nguy cơ ngày càng tăng đối với PE [13], và được sử dụng để phân tầng nguy cơ hơn nữa ở những bệnh nhân có xác suất trước xét nghiệm thấp – không cần chụp ảnh ở những bệnh nhân có D- dimer âm tính [14,15]. Những bệnh nhân có PE và D-dimers tăng lên đáng kể đã được chứng minh là thường xuyên bị hạ huyết áp, nhịp tim nhanh và/hoặc giảm oxy máu [16]. Gánh nặng chụp X quang của bệnh huyết khối phổi cũng có thể lớn hơn với giá trị D-dimer cao [17,18].

Do đó, chúng tôi đã kiểm tra các đặc điểm lâm sàng và chụp X quang của những bệnh nhân bị COVID-19, những người đã được chụp phổi để tìm bệnh huyết khối có thể xảy ra. Chúng tôi báo cáo tỷ lệ PE và xem xét tiện ích của điểm D-dimer và Wells trong nhóm bệnh nhân này.

PR

コメント

プロフィール

HN:
No Name Ninja
性別:
非公開

カテゴリー

P R